Cá ngựa (hải mã) là một vị thuốc quý trong y học cổ truyền, được sử dụng từ lâu đời trong y học cổ truyền. Theo Đông y, hải mã có vị ngọt, mặn, mùi tanh, tính ôn, không độc, đi vào thận kinh.
Đặc điểm sinh học của cá ngựa
1. Mô tả
- Ở Việt Nam, cá ngựa có nhiều loài với kích thước và màu sắc khác nhau.
- Các loài đều có đặc điểm chung như sau: Thân dẹt bên, khá dày, cấu tạo bởi các đốt xương vòng, dài 5- 20cm, có loài dài đến 30cm. Đầu giống đầu ngựa nằm ngang vuông góc với thân hoặc gập xuống, đỉnh có chùm gai. Mõm hình trụ dài, miệng nhỏ, mắt to, lưng hơi võng, có vây to, bụng phình không có vây, vây ngực nhỏ, vây hậu môn rất nhỏ. Cá ngựa đực có túi ở bụng để hứng trứng do cá cái đẻ vào, nên nhiều người lầm đó là cá cái. Đuôi dài, xoắn tròn về phía trước, không có vây. Màu sắc thường là vàng, trắng, vàng- nâu, có khi pha đỏ và xanh đen nhạt. Khi bơi lượn trong nước, nhất là lúc cặp đôi vào mùa sinh đẻ, cá ngựa thay đổi màu sắc rất ngoạn mục.
2. Phân bố, sinh thái
- Cá ngựa sống ở biển, các vịnh, gần bờ ở độ sâu vài mét đến vài chục mét, có ở nhiều nơi trên thế giới. Ở Việt Nam, cá ngựa thường gặp ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Nghệ An và dọc bờ biển các tỉnh phía nam từ Quảng Nam- Đà Nẵng đến Kiên Giang, nhiều nhất ở vịnh Hạ Long, Bình Thuận, Khánh Hoà. Cá bơi thẳng đứng và dùng đuôi cuộn bám vào thực vật hoặc san hô, ăn động vật nhỏ di động và thực vật thủy sinh. Cá di chuyển chậm và để tránh kẻ thù, nó thường ẩn nấp trong các thảm cỏ biển, rạn đá, rạn san hô. Cơ thể thay đổi màu sắc với môi trường xung quanh để tự bảo vệ. Mùa sinh đẻ của cá vào tháng 3- 7. Các loài cá ngựa được phát hiện là cá ngựa vàng (cá ngựa lớn, đại hải mã. – Hippocampus kuda Bleeker.), cá ngựa trắng (bạch hải mã- Hippocampus kelloggi Jordan et Snyder), cá ngựa chấm (cá ngựa ba khoang hay ba chấm, tam ban hải mã- Hippocampus trimaculatus Leach), cá ngựa gai (thích hải mã, thiết hải mã- Hippocampus histrix Kaup.), cá ngựa Nhật (Hippocampus japonicus Kaup.), cá ngựa mõm ngắn (Hippocampus brevirostris), cá ngựa Úc (Hippocampus phylloperexeques). Mùa khai thác được nhiều cá ngựa vào tháng 8- 9. Người ta không tổ chức đánh bắt riêng cá ngựa mà thường kết hợp khi đánh bắt các loại hải sản khác.
- Hai loài bị khai thác nhiều nhất là cá ngựa gai và cá ngựa ba khoang. Hàng năm, cả nước thu hoạch ước chừng 2- 4 tấn cá ngựa khô. Theo ước tính của các nhà nghiên cứu, hàng năm có khoảng 20 triệu con cá ngựa được tiêu thụ trên thế giới với mục đích chữa bệnh và nuôi làm cảnh. Một số nước như Australia, Ấn Độ, Argentina, Philippin đã có chương trình nuôi cá ngựa. Từ năm 1992 đến 1994, hai tỉnh Khánh Hoà và Bình Thuận đã phối hợp thực hiện đề tài nghiên cứu nuôi cá ngựa và cho cá đẻ để phát triển có kết quả tốt.
- Viện Hải Dương học Nha Trang cũng đã thành công trong việc thuần hóa, nuôi cá ngựa ăn thức ăn chết thay cho thức ăn sống như trước đây và đã thả hàng chục nghìn cá con ra biển để phục hồi và bảo vệ nguồn lợi tự nhiên này đang bị suy giảm.
Vị thuốc cá ngựa
Tên tiếng Việt: Cá ngựa, Hải mã, Thủy mã, long mã
Tên nước ngoài: Horse – fish, Sea- horse (Anh); Hippocampe, Cheval – marin (Pháp)
Tên khoa học: Hippocampus spp.
Họ: Cá chìa vôi (Syngnathidae).
1. Bộ phận dùng
Cả con cá ngựa, tên thuốc trong y học cổ truyền là hải mã, được chế biến cụ thể như sau: Cá bắt về, rửa sạch, mổ bụng, bỏ ruột, uốn đuôi cho cong tròn lại, rồi phơi hay sấy khô. Có người còn dùng bàn chải đánh sạch lớp màng da màu thẫm bên ngoài, rửa sạch rồi mới mổ. hoặc ngâm cá vào rượu hồi hoặc rượu quế một thời gian, rồi mới phơi hoặc sấy khô. Ở thị trường, người ta thường bán hai con cá ngựa buộc chung với nhau, một to, một nhỏ (tượng trưng cho con đực và con cái). Dược liệu hải mã giống như một giống dài, dẹt và cong, phần giữa to, mặt ngoài màu trắng ngà hoặc vàng nâu. Toàn thân có những đốt vân nổi rõ và nhô lén ở suốt dọc lưng, bụng và hai bên sườn như gai. Đầu gập xuống hoặc hơi choãi ra, đỉnh đầu có một u lồi, hai mắt lõm sâu. Đuôi thuôn dần và cuộn tròn vào phía trong. Chất nhẹ cứng. Thứ to, màu sáng đều, đầu và đuôi còn nguyên vẹn là loại tốt.
2. Tính vị, công năng
Hải mã có vị ngọt, mặn, mùi tanh (nếu không sao tẩm), tính ấm, không độc, có tác dụng làm ấm thận, tráng dương, gây hưng phấn, kích thích sinh dục, giảm đau.
3. Công dụng
- Cá ngựa đã được ghi vào sách thuốc cổ “Cương mục thập di” của Trung Quốc từ năm 1795. Dược liệu chữa thần kinh suy nhược, cơ thể yếu mệt, đau lưng nhất là ở người cao tuổi, phụ nữ đau bụng, đẻ khó, nam giới bất lực về sinh lý, đinh nhọt, sang lở. Ngoài ra, trong một số trường hợp, có thể chữa bệnh hen suyễn. Ngày dùng 4- 12g chia làm 3 lần dưới dạng thuốc bột hoặc làm viên uống với nước hoặc rượu. Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác như dâm dương hoắc, kỷ tử… Theo quan niệm của ngư dân vùng biển, cá ngựa để tươi ngâm rượu mới quý; do đó, trong mỗi chuyến ra khơi, họ thường mang theo hàng lít rượu trắng để ngâm ngay khi bắt được cá. Họ còn cho biết phải dùng một đôi cá ngựa, nhất là đôi cá đang “quấn nhau” và còn nguyên mắt mới tốt.
- Dùng ngoài, tán cá ngựa thành bột mịn, rắc chữa lở loét. Ở Trung Quốc, người ta dùng cá ngựa tươi nấu với thịt gà ăn làm thuốc bổ khí huyết, ôn thận dương.
4. Liều dùng thông thường của cá ngựa là bao nhiêu?
Liều dùng: Ngày dùng 4 – 12g. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 – 3g.
Cách dùng:
- Cá ngựa có thể được rang chín và ăn trực tiếp.
- Dùng dưới dạng thuốc sắc, có thể dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác như dâm dương hoắc, kỷ tử…
- Dạng bột hoặc thuốc viên uống với nước hoặc rượu.
- Cá tươi ngâm rượu. Rượu thuốc có thể phát huy tác dụng sinh học tốt hơn thuốc sắc. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng rượu thuốc cá ngựa có chứa axit amin và các nguyên tố khoáng chất, có tác dụng chống mệt mỏi và cải thiện khả năng miễn dịch.
- Tán thành bột mịn dùng ngoài chữa lở loét.
Bài thuốc có cá ngựa
-
Chữa liệt dương, đàn bà chậm có con do suy dương khí:
Chuẩn bị: Cá ngựa (30g, đã chế biến), bàn long sâm (30g), cốt toái bổ (20g), long nhãn (20g).
Thực hiện: Tất cả cắt nhỏ, ngâm trong một lít rượu trong 5- 7 ngày. Càng lâu càng tốt.
Sử dụng: Ngày uống 20- 40 ml. Người không uống được rượu, pha thêm nước và mật ong mà uống.
-
Chữa viêm thận mạn tính:
Chuẩn bị: Cá ngựa (1 con to), bầu dục lợn 1 quả.
Thực hiện: Cá ngựa rang cho chín vàng giòn, tán bột; bầu dục lợn bổ đôi, rửa sạch, cho bột cá ngựa vào, buộc chặt, hấp cách thuỷ.
Sử dụng: Ăn hết trong một lần. Mỗi liệu trình dùng trong 15 ngày liên tiếp.
-
Rượu cá ngựa điều trị bệnh liệt dương ở nam giới
Rượu cá ngựa có tác dụng gì? Rượu cá ngựa kết hợp với một số thành phần khác như long nhãn, cốt toái bổ và bàn long sâm dùng điều trị thận dương hư, cải thiện chức năng sinh lý ở nam giới gặp tình trạng liệt dương, giảm ham muốn tình dục.
Chuẩn bị: Cá ngựa khô đã sơ chế, 30g Bàn long sâm, 30g Cốt toái bổ: 20g, Long nhãn: 20g, 1 lít rượu trắng ngon (trên 40 độ) Bình thủy tinh hoặc bình sứ có miệng rộng dùng ngâm rượu.
Cách thực hiện: Các vị thuốc đem cắt nhỏ, cho hết vào bình, thêm rượu vào đậy nắp kín lại. Để nơi thoáng mát, thỉnh thoảng lắc nhẹ để các nguyên liệu thấm đều rượu. Ngâm trong 5- 7 ngày là có thể sử dụng. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm dân gian, càng ngâm lâu thì tác dụng của rượu cá ngựa sẽ càng cao.
Sử dụng: Mỗi ngày uống 20 – 40 ml chia làm 3 lần uống. Nếu không uống được rượu, có thể pha thêm nước và mật ong cho dễ uống.
-
Rượu cá ngựa chữa di tinh, yếu sinh lý
Việc kết hợp rượu cá ngựa với các vị thuốc bắc như đại hồi, dâm dương hoắc, khởi tử, câu kỷ tử giúp cải thiện các triệu chứng của di tinh, yếu sinh lý, nâng cao phong độ chốn phòng the cho đấng mày râu.
Chuẩn bị: 1 cặp cá ngựa, Đại hồi: 6g, Dâm dương hoắc: 6g, Khởi tử: 12g, Câu kỷ tử: 10g, 1/2 lít rượu trắng.
Cách thực hiện: Các nguyên liệu cho hết vào bình ngâm với rượu trắng. Để bình rượu trong khoảng 30 ngày có thể lấy ra dùng.
Sử dụng: Mỗi ngày uống 20-30ml.
-
Cá ngựa chữa hen phế quản, thở khò khè
Chuẩn bị: 5g hải mã, 10g đương quy
Cách thực hiện: Đem 2 nguyên liệu đã chuẩn bị sắc cùng 200ml nước. Khi nước sôi vặn lửa nhỏ rồi đun cho đến khi nước cạn còn 50ml. Mỗi ngày uống 1 thang và uống hết 1 lần.
Một số món ăn – bài thuốc và rượu thuốc từ cá ngựa
Gà giò hầm cá ngựa: cá ngựa 2 con, gà giò 1 con, nấm hương 30g, lạp sườn hoặc giăm bông 30g. Cá ngựa chế biến, gà giò làm sạch, nấm hương ngâm nước cho nở. Gà giò luộc, rút bỏ xương, đặt cá ngựa, nấm hương, hành hoa hoặc hành củ thái lát, gừng tươi thái lát lên trên và xung quanh, thêm muối, rượu, gia vị. Hầm nhừ trong khoảng 30 phút, gắp bỏ hành, gừng, thêm tiêu, ớt, gia vị. Dùng cho các trường hợp liệt dương, di tinh, tảo tiết, bạch đới khí hư (huyết trắng).
Rượu hải mã (hải mã tửu): cá ngựa 30g, rượu 500ml, ngâm 7 ngày. Mỗi lần uống 20ml, ngày 2 – 3 lần. Dùng cho các trường hợp liệt dương, chấn thương đụng đập, suy nhược cơ thể, suy nhược thần kinh.
Cháo hải mã: cá ngựa 2 – 4 con, gạo tẻ 60 – 80g. Cá ngựa rửa sạch, chặt nhỏ, nấu chín, cho gạo tẻ vào nấu thành cháo, thêm gia vị thích hợp. Dùng cho các trường hợp liệt dương, viêm sưng hạch, u bướu vùng bụng, sưng tấy do chấn thương.
Bột cá ngựa: cá ngựa từng đôi (cả con đực và con cái) làm sạch bỏ ruột sao vàng hoặc nướng chín vàng tán thành bột mịn, uống với nước nóng, mỗi lần 4 – 6g, ngày uống 1 – 2 lần. Dùng cho các trường hợp hen suyễn, thận hư; suy nhược thần kinh. Trường hợp vô sinh thì cả vợ chồng cùng uống.
Lưu ý khi sử dụng:
- Không tự ý sử dụng: Cá ngựa là một vị thuốc, cần được sử dụng đúng cách và dưới sự hướng dẫn của thầy thuốc.
- Không dùng cho phụ nữ mang thai: Cá ngựa có thể gây co bóp tử cung, không an toàn cho phụ nữ mang thai.
- Không dùng cho người bị cao huyết áp: Cá ngựa có thể làm tăng huyết áp.
- Người bị dị ứng với hải sản: Nên thận trọng khi sử dụng cá ngựa.
- Tương tác thuốc: Cá ngựa có thể tương tác với một số loại thuốc khác, cần tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng.
Lưu ý: Thông tin trên chỉ mang tính chất tham khảo, không thay thế cho lời khuyên của bác sĩ. Trước khi sử dụng bất kỳ loại thuốc nào, bạn nên tham khảo ý kiến của thầy thuốc Đông y để được tư vấn cụ thể.