Trong Đông y, chứng ra mồ hôi trộm được gọi là “Đạo hãn” (盗汗). Chữ “Đạo” (盗) có nghĩa là trộm, cắp. Cái tên này miêu tả rất chính xác đặc điểm của chứng bệnh: mồ hôi thường ra lén lút như kẻ trộm, vào ban đêm khi đang ngủ, khi tỉnh dậy thì mồ hôi tự ngưng lại.

Nguyên nhân và Cơ chế theo Đông y
Đông y cho rằng, việc ra mồ hôi là do sự quản lý của “Vệ khí“ (衛氣) – một dạng khí phòng vệ của cơ thể, có công năng bảo vệ, giữ ấm và điều tiết mồ hôi ở da lông. Ban ngày, Vệ khí vận hành ở phần ngoài cơ thể nên lỗ chân lông đóng kín. Ban đêm, khi ngủ, Vệ khí vào sâu trong cơ thể, lỗ chân lông mở ra, nhưng nếu có sự mất cân bằng, sẽ dẫn đến đổ mồ hôi.
Nguyên nhân chủ yếu của chứng đạo hãn là do Âm hư (陰虛), cụ thể hơn là Âm hư Hỏa vượng hoặc Âm hư nội nhiệt.
Âm hư (陰虛):
Âm trong cơ thể đại diện cho phần vật chất, dịch thể, có tính mát, có tác dụng làm dịu và nuôi dưỡng.
Khi Âm bị suy giảm (hư), sẽ không thể che chắn và làm dịu được phần Dương (陽 – phần năng lượng, nhiệt). Điều này dẫn đến Dương khí bị hư càng (dương cang), tạo ra một trạng thái nhiệt giả bên trong gọi là “Hư hỏa” (虛火 – lửa ảo).
Ban đêm, khi Vệ khí vào trong, phần Hư hỏa này bốc lên, đẩy dịch thể (mồ hôi) ra ngoài, gây đổ mồ hôi. Khi tỉnh dậy, Vệ khí lại ra ngoài, lỗ chân lông đóng lại, nên mồ hôi ngừng.
Một số nguyên nhân khác (ít gặp hơn):
Khí hư (氣虛): Khí không thể giữ được dịch trong cơ thể, dẫn đến thoát ra ngoài. Trường hợp này mồ hôi có thể ra cả ngày lẫn đêm, nhưng thường nặng hơn về đêm và kèm theo các triệu chứng mệt mỏi.
Thấp nhiệt (濕熱): Nhiệt độc kết hợp với thấp khí ứ đọng trong cơ thể cũng có thể ép dịch thoát ra.
Biểu hiện đi kèm
Người bị chứng đạo hãn do Âm hư thường có các biểu hiện sau:
Ngũ tâm phiền nhiệt: Nóng trong lòng bàn tay, bàn chân và cảm giác nóng bừng ở vùng ngực (trung tâm).
Họng khô, miệng khô: Thích uống nước mát nhưng uống không nhiều.
Gò má đỏ: Hai bên gò má lúc nào cũng ửng hồng.
Lưỡi đỏ, ít rêu, hoặc rêu lưỡi vàng mỏng.
Mạch Tế Sác (mạch nhỏ, nhanh).
Hướng điều trị trong Đông y
Nguyên tắc điều trị chủ đạo là: Tư Âm, Giáng Hỏa, Liễm Hãn (Bổ âm, làm mát hư hỏa, thu liễm mồ hôi).
Bài thuốc kinh điển: Đương quy lục hoàng thang là bài thuốc tiêu biểu cho chứng này, với các vị thuốc như Đương quy, Sinh địa, Thục địa, Hoàng bá, Hoàng liên, Hoàng kỳ… để tư âm, thanh nhiệt.
Các vị thuốc thường dùng: Mẫu lệ, Sinh địa, Đơn bì, Địa cốt bì, Tri mẫu, Ngũ vị tử…
Châm cứu: Các huyệt thường được chọn như Phế du, Cao hoang du, Túc tam lý, Âm giao, Hợp cốc, Phục lưu… để bổ âm, ích khí, cố biểu.

Ăn uống chữa ra mồ hôi trộm
Cháo cá thu: cá thu 250g, tiêu bột 1g, chân giò 25g, hành 15g, bột ngọt 2g, gạo 100g, gừng 10g, rượu 10g, muối 10g. Cá làm sạch, để trong bát, cho thêm gừng, hành, muối, chân giò, tất cả hấp cho chín. Sau đó bỏ vây, đầu. Gạo vo sạch cho vào nồi, đổ nước vừa đủ đun sôi, sau nhỏ lửa nấu thành cháo loãng, cuối cùng cho thịt cá, bột ngọt, tiêu bột là được. Ngày ăn 1 bát, chia theo bữa ăn.
Cháo sò, hến: sò biển 100g, hến 100g, gạo 50g, rễ cây hẹ 3g, bột gia vị vừa đủ. Sò, hến đem rửa sạch, hấp cách thủy rồi nhặt bỏ vỏ, thái ruột nhỏ, ướp bột gia vị. Rễ cây hẹ rửa sạch giã nhỏ, lọc lấy nước. Gạo xay nhỏ mịn, cho vào nước rễ cây hẹ, quấy đều, đun trên lửa nhỏ. Khi cháo chín cho sò và hến vào đảo đều, cháo sôi lại là được. Ăn ngày 1 lần lúc đói, ăn liền 4 – 5 ngày.
Canh trai: con trai đồng 100g, lá hẹ 50g, bột gia vị vừa đủ. Rửa sạch con trai đem hấp cách thủy, chắt lấy nước trong của con trai tiết ra; ruột trai làm sạch thái nhỏ, ướp gia vị, xào cho thịt trai ngấm mắm muối; rau hẹ rửa sạch thái vừa miếng. Đổ thêm nước sôi vào nước trai vừa đủ, đun sôi, thả rau hẹ, thịt trai vào, canh sôi lại là được. Ăn ngày 1 lần, ăn liền 5 ngày.
Canh lá dâu: lá dâu non 50g, thịt lợn nạc 100g, bột ngọt, bột gia vị vừa đủ. Lá dâu non rửa sạch, thái nhỏ. Thịt lợn nạc băm nhỏ, ướp bột gia vị, xào chín, thêm nước, đun sôi, cho lá dâu vào đảo đều, canh sôi lại cho bột ngọt là được. Ăn ngày 1 lần với cơm, ăn liền 5 ngày.