Ngày nay, thiên môn đông không chỉ là loài cây cảnh làm đẹp. Chúng còn là loại thảo dược có nhiều công dụng đối với sức khỏe con người. Vì vậy trong bài viết hôm nay, dominoshop.vip sẽ giới thiệu về thiên môn đông có những đặc điểm gì, chúng được dùng như thế nào, và đặc biệt là những lợi ích về sức khỏe mà thiên môn đông mang lại cho sức khỏe của chúng ta.
Giới thiệu về cây Thiên Môn Đông
Cây thiên môn là một cây thuốc quý, cây dạng dây leo, sống lâu năm, dưới đất có rất nhiều rễ củ mẫm hình thoi. Thân mang nhiều cành 3 cạnh, dài nhọn, biến đổi thành lá giả hình lưỡi liềm. Lá thật rất nhỏ, trông như vẩy. Mùa hạ ở kẽ lá mọc hoa trắng nhỏ. Quả mọng, khi chín màu đỏ (cũng có cây, quả khi chín màu tím đen). Mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi.
Tên thường gọi: Vị thuốc Thiên môn còn gọi Điên hách, Địa môn đông, Duyên môn đông, Quan tùng, Vô bất dũ, Cán thảo (Bảo Phác Tử), Tương mỹ, Mãn đông (Nhĩ Nhã), Điên lặc (Bản Kinh), Thiên cức, Bà la thụ, Vạn tuế đằng (Bản Thảo Cương Mục), Thiên đông, Kim hoa, Thương cức, Thiên văn đông (Hòa Hán Dược Khảo), Dây tóc tiên (Dược Liệu Việt Nam), dây tóc tiên, thiên môn đông, sùa sú tùng (H’mông), mằn săm (Tày), đù mào siam (Dao).
Tên tiếng Trung: 天冬
Tên khoa học: Asparagus cocjinchinensis (Lour.) Merr
Họ khoa học: họ Hành Tỏi (Liliaceae).
Thu hoạch và chế biến
Khi đã đủ 2 năm tuổi, thiên môn đông sẽ được thu hái từ tháng 10 đến tháng 12. Phần rễ củ sau khi đào lên sẽ được bỏ phần rễ phụ, rửa sạch và tiến hành sơ chế bằng một trong những cách sau:
Cách 1: Tẩm nước, đồ chín, bóc vỏ và rút bỏ lõi. Sau đó thiên môn đông được thái nhỏ mang đi phơi hoặc sấy khô.
Cách 2: Rửa sạch, bỏ lõi, thái phiến, rồi đem phơi khô để dùng dần.(Đông Dược Học Thiết Yếu).
Cách 3: Rửa sạch, bỏ lõi, ủ cho mềm, tiếp theo là phơi khô để dùng dần.(Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
Cách 4: Cạo bỏ phần vỏ ngoài, rút bỏ lõi. Sau đó, mang đi đồ chín, rồi mang phơi khô. Cuối cùng là tẩm rượu qua 1 đêm, đồ lại một lần nữa và phơi khô hoàn toàn.
Cách 5: Cạo vỏ, bỏ lõi, đồ chín, phơi khô, tẩm rượu 1 đêm, đồ lại, phơi khô dùng (Lôi Công Bào Chích Luận).
Trong đó, đồ là phương pháp chế biến dược liệu phối hợp nước và lửa. Kĩ thuật cơ bản là hấp dược liệu cách thủy trong nồi chuyên dụng.
Bảo quản: Để nơi khô ráo vì Thiên Môn Đông dễ ẩm mốc.
Phần dùng làm thuốc:
Củ rễ (Radix Aspargi). Loại béo mập, cứng, mịn, mầu trắng vàng, hơi trong là loại tốt. Củ dài, gầy, mầu nâu vàng, không sáng là loại vừa.
Mô tả dược liệu:
Củ hình thoi, tròn dài, hai đầu nhỏ nhưng tầy, dài 6-20cm. Mầu trắng vàng hoặc nâu, vàng nhạt, có chất dầu hơi trong. Mặt ngoài có vằn dọc nhỏ hoặc rãnh dọc. Khi khô, chất cứng nhưng dòn. Chưa khô thì chất mềm, dính,chỗ vết bẻ như chất sáp, mầu trắng vàng, hơi trong, giữa có nhân trắng, không trong. Vị ngọt, hơi đắng (Dược Tài Học).
Thành phần hóa học:
+ Yamogenin, Diosgenin, Sarsasapogenin, Smilagenin, Xylose, Glucose, Rhamnose (Hắc Liễu Chính Điển, Nhật Bản Dược Học Hợp Quyển 107, Trung Y Trung Dược Thủ Sách 1988, 10 (1): 56).
+ Sucrose, Ologosaccharide(Tomoda Masashi và cộng sự, Chem Pharm Bull 1974, 22 (10): 2306).
+ 5-Methoxymethyl fùrural, beta-Sitosterol5
+ Citrulline, Asparagine, Serine, Threonine, Proline, Glycine, Alanine, Valine, Methionine, Leucine, Isoleucine, Phenylalanine, Tyrosine, Aspartic acid, Glutamic acid, Histidine, Lysine 6,7
+ Asparagi Cochinchinensisne, b-Sitosterol, Smilagenin, 5-Methoxymethylfùrural, Rhamnose (Trung Dược Học).
+ Trong Thiên môn có acid Amin, chủ yếu là Asparagin, thủy phân trong nước sôi cho Aspactic acid và Amoniac. Ngoài ra, còn có chất nhầy, tinh bột, Sacarosa (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
Tác dụng dược lý:
– Tác dụng kháng khuẩn: Nước sắc Thiên môn có tác dụng ức chế liên cầu khuẩn A và B, Phế cầu khuẩn, tụ cầu khuẩn vàng, trực khuẩn bạch cầu (Trung Dược Học).
– Tác dụng chống khối u: Nước sắc Thiên môn có tác dụng ức chế Sacroma –180 và Deoxygenase của tế bào bạch cầu ở chuột nhắt bị viêm hạch bạch huyết cấp hoặc viêm hạt bạch huyết mạn (Trung Dược Học).
– Nước sắc Thiên môn có tác dụng giảm ho, lợi tiểu, thông tiện, cường tráng (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
– Ức chế men dihydrogenase của tế bào bệnh bạch cầu lympho cấp tính,
– Kích phát sự hoạt động của interferon, tác dụng kháng bệnh bạch huyết…
Vị thuốc Thiên Môn Đông
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng …. )
Tính vị:
+ Vị đắng, tính bình (Bản Kinh).
+ Vị ngọt, tính rất hàn, không độc (Biệt Lục).
+ Vị ngọt, đắng, tính hàn (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Quy kinh:
+ Vào kinh thủ Thái âm Phế, túc Thiếu âm Thận (Thang Dịch Bản Thảo).
+ Vào kinh thủ Thái âm Phế, thủ Thiếu âm Tâm (Bản Thảo Kinh Giải).
+ Vào kinh Phế, thận (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Tác dụng
+ Bảo định Phế khí, khu hàn nhiệt, dưỡng cơ bì, ích khí lực, lợi tiểu tiện (Biệt Lục).
+ Thông Thận khí, trừ nhiệt, chỉ tiêu khát, khử nhiệt trúng phong (Dược Tính Bản Thảo).
+ Trấn Tâm, nhuận ngũ tạng, ích bì phu, bổ ngũ lao, thất thương (Nhật Hoa Tử Bản Thảo).
Chủ trị:
+ Trị hư lao, người gìa suy nhược, gầy ốm, âm nuy, điếc, mắt mờ (Thiên Kim phương).
+ Trị phế khí ho nghịch, suyễn, phế nuy sinh ra nôn ra mủ, ghẻ nước (Dược Tính Bản Thảo).
+ Trị ho lao, lao phổi, ho ra máu, khát nước do bệnh ở thượng tiêu (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Liều dùng: Dùng dạng sắc 6-12g
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc thiên môn
Tư âm, dưỡng huyết, ôn bổ hạ nguyên:
Thiên môn bỏ lõi, Sinh địa đều 80g. cho vào bình bằng gỗ cây Liễu, cho rượu vào rửa. Chưng chín rồi phơi 9 lần, đến lúc thật khô. Thêm Nhân sâm 40g, tán bột. Lấy 9 quả Táo tầu, bỏ hột, gĩa nát, trộn thuốc bột làm viên, to bằng hạt Ngô đồng. Mỗi lần uống 30 viên, với rượu nóng, trước bữa ăn, ngày 3 lần (Tam Tài Hoàn – Hoạt Pháp Cơ Yếu).
Trị cơ thể đau nhức do hư lao:
Thiên môn, tán bột. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 thìa với rượu (Thiên Kim phương).
Làm cho nhan sắc xinh tươi:
Thiên môn, Thục địa, Hồ ma nhân, tán nhuyễn, trộn với mật ong, làm thành viên, to bằng hạt Long nhãn. Mỗi lần uống 20 viên với nước nóng (Trửu Hậu phương).
Trị phế nuy, ho, khạc nhiều đờm, trong tim nóng, miệng khô, khát nhiều:
Thiên môn để sống, gĩa vắt lấy nước cốt chừng 7 chén, rượu 7 chén, Mạch nha 1 chén, Tử uyển 160g. cho vào bình bằng đồng hoặc nồi bằng sành, nấu đặc thành cao hoặc làm thành viên. Mỗi lần uống to bằng qủa Táo, ngày 3 lần (Trửu Hậu phườn).
Trị Tiêu khát
Thiên môn, Mạch môn, Ngũ vị tử, nấu đặc thành cao, thêm ít Mật ong để dùng dần (Giản Tiện phương).
Trị âm hư hỏa vượng, có đờm mà không dùng được thuốc táo:
Thiên môn 1 cân, rử nước, bỏ lõi, lấy nguyên nhục khoảng 480g. cho vào cối đá gĩanát. Lấy Ngũ vị tử, rửa sơ qua, bỏ hột, chỉ lấy thịt 160g. phơi khô (đừng cho vào lửa). Cả hai thức cùng nghiền nát, trộn với hồ làm thành viên, to bằng hạt Ngô đồng. Mỗi klần uống 20 viên với nước trà nóng, ngày 3 lần (Giản Tiện phương).
Trị phế nuy, hư lao, phong nhiệt, trị chứng nóng, khát:
Thiên môn, bỏ vỏ, bỏ lõi, nấu chín, ăn. hoặc phơi khô, tán bột, luyện với mật làm thành viên, to bằng hạt Ngoốnnng. Mỗi lần uống 20 viên với nước trà. Cũng có thể nấu lấy nước để rửa mặt (Thực Liệu Bản Thảo).
Trị phong, điên, mỗi khi lên cơn thì nôn mửa, tai ù như ve kêu, đau lan xuống cạnh sườn:
Thiên môn, bỏ lõi, phơi khô, gĩa nát. Mỗi lần dùng 1 thìa với rượu, ngày 3 lần (Ngoại Đài Bí Yếu).
Trị phụ nữ bị cốt chưng, trong xương nóng, buồn phiền, bứt rứt, mồ hôi trộm, miệng khô, khát mà không uống được nhiều, suyễn:
Thiên môn, Thanh hao, Miết giáp, Mạch môn, Sài hồ, Ngưu tất, Bạch thược, Địa cốt bì, Ngũ vị tử. Lượng bằng nhau, sắc uống (Hoạt Pháp Cơ Yếu).
Trị lỡ miệng lâu ngày không khỏi:
Thiên môn (bỏ lõi), Mạch môn (bỏ lõi), Huyền sâm. Lượng bằng nhau, tán bột, trộn mật làm thành viên, to bằng hạt Long nhãn. Mỗi lần ngậm 1 viên [Bài này do nhà sư Liêu Sở truyền cho] (Ngoại Khoa Tinh Nghĩa).
Trị thiên trụy [sán khí]:
Thiên môn 12g, Ô mai 20g, nấu cho kỹ, uống (Hoạt Nhân Tâm Kính phương).
Trị da mặt nám đen:
Thiên môn, phơi khô, gĩa nát, trộn với mật ong làm thành viên. Hằng ngày, dùng thuốc viên pha với nước để rửa mặt. Dùng thuốc xát vào da cũng sẽ làm cho da dần dần tươi sáng, xinh tươi (Thánh Tế Tổng Lục).
Trị đau nhức bằng thiên môn đông
– Nguyên liệu: một lượng thiên môn đông vừa đủ
– Cách làm và liều dùng: Tán dược liệu thành bột mịn. Mỗi lần dùng 1 thìa uống cùng với rượu. Ngày dùng 3 lần cho đến khi khỏi.
Trị ho, khạc nhiều đờm. Miệng khô, khát nhiều.
– Nguyên liệu: lượng vừa đủ để thu được 7 chén nước cốt, 7 chén rượu, 1 chén mạch nha, tử uyển 160g
– Cách làm và liều dùng: thiên môn để sống mang đi giã để vắt được 7 chén cốt. Cho nước cốt thiên môn, 7 chén rượu, 1 chén mạch nha, tử uyển vào nồi đồng hoặc nồi sành. Đun trên lửa nhỏ, nấu thành cao đặc. Ngày dùng 3 lần, mỗi lần uống một lượng to bằng quả táo.
Trị miệng lở lâu ngày không khỏi
– Nguyên liệu: thiên môn đã chế biến 12g, mạch môn (bỏ lõi) 12g, huyền sâm 12g.
– Cách làm và liều dùng: Sắc uống ngày 1 thang như trên, chia thành 3 lần uống sau ăn.
Trị chứng nóng, khát, phong nhiệt
– Nguyên liệu: thiên môn đông đã chế biến, mật ong
– Cách làm: thiên môn đông mang đi tán mịn thành bột. Sau đó trộn cùng mật ong để vo thành viên cỡ hạt bắp. Mỗi lần dùng 20 viên với nước trà.
Trị suy nhược cơ thể sau khi nhiễm bệnh, sốt lâu ngày
– Nguyên liệu: Nhân sâm 4 – 8g, thiên môn 10 – 20g, thục địa 10 – 20g
– Cách làm: Cho tất cả các nguyên liệu vào cùng lúc rồi mang đi sắc nước uống.
Trị suy nhược cơ thể
Thiên môn đông hầm thịt: Thiên môn đông 60g, Thịt nạc 500g.
Thịt nạc, hầm cùng với thiên môn đông. Ăn thịt, thái miếng, uống nước thuốc.
Ngày ăn 2 lần. Dùng cho người suy nhược cơ thể, phụ nữ sau sinh ít sữa, sắc mặt xanh xao.
Tăng sữa
Thiên môn đông tươi 50g, chân giò 500g. Chân giò hầm trước, sau đó cho thiên môn đông vào đun tiếp cho mềm. Ăn chân giò, uống nước thuốc.
Trị hoa mắt, chóng mặt
Thang ba ba, thiên môn đông: Thịt ba ba 600g, chân giò muối 200g, bách hợp 10g, thiên môn đông 15g, mạch môn đông 15g, câu kỷ tử 5g, gia vị ( rượu, hành, gừng) vừa đủ. Tất cả cho vào nồi hầm mềm. Ăn thịt, uống nước thuốc.
Dùng cho người can thận âm hư, sinh ra chứng chóng mặt, hoa mắt, hai gò má đỏ gay, họng khô háo mà đau, hay quên, tai ù, ngũ tâm phiền nhiệt, thân nhiệt thấp, đổ mồ hôi trộm, nam giới di tinh, nữ giới hành kinh lượng ít…
Cao thiên môn đông
Thiên môn đông 100g, mật luyện 250g. Thiên môn đông bỏ vỏ, lõi, giã nát, lọc nhiều lần lấy nước. Đun nhỏ lửa lấy nước đặc cho mật luyện đánh tan, cô đặc lại thành cao. Bảo quản sau 7 ngày, lấy ra dùng.
Ngày uống 2 lần. mỗi lần 2 thìa cafe hòa với nước nóng. Dùng trong trường hợp ho khan, ít đờm, uống nhiều tiểu nhiều do phế vị âm hư.
Tham khảo:
Kiêng kỵ khi dùng thiên môn
+ Phế không có hư hỏa mà lại có hàn đàm hoặc đàm ẩm: cấm dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Sở dĩ nói Thiên môn nhuận được 5 tạng, kỳ thực nó nhuận được Phế, thì sau đó 5 tạng cũng được nhuận lây, thế thì Thiên môn cũng là một vị thuốc tốt để nhuận Phế vậy (Hòa Hán Dược Khảo).
+ Thiên môn bẩm thụ được khí sơ sinh đại hàn từ buổi bắt đầu mà sinh ra, cho nên nó được khí thuần âm của đất. Vị của nó tuy hơi đắng nhưng lại ngọt mà hơi cay, chính khí của nó là đại hàn, không độc, cần được nhiều chất ngọt hơn vì vị của nó hậu hơn khí, cho nên nó trừ được hư nhiệt của Phế và Thận (Cù Hy Ung).
+ Thiên môn nhuận táo, giúp ích châ phần âm, thanh được Phế kim, giángđược hỏa tà cm được hỏa tà (Bản Thảo Cương Mục).
+ Mạch môn và Thiên môn đều phải bỏ lõi nhưng lấy nước mà sấp dần cho mềm thôi, không nên ngâm hẳn vào trong nước, mất hết tân dịch của nó đi. Một khi khí vị đã hết, dùng vào thuốc không thấy công hiệu lại cho rằng tại thuốc, sao không biết rằng tại mình làm mất hất chất tốt của thuốc đi rồi thì làm sao mà có hiệu quả (Khấu Tông Thích).
+ Tính của Thiên môn trị được ho, khí suyễn, suyễn do phế nuy, hoặc phế ung, nôn ra mủ máu. Tính của nó trừ được nhiệt, phong, trị được ghẻ lở, dùng nó phải uống nhiều, uống lâu, nấu chín mà ăn, làm cho người ta béo tốt, xinh tươi, trắng trẻo, trừ được nội tích, các loại khí nóng(Chân Quyền).
+ Sợ cá Chắm, cá Chầy, cá Chép
+ Thiên môn có tác dụng thanh kim, giáng hỏa, ích cho Thận, cho nên thông được khí của Thận, lại tư bổ cho Thận. Chủ của 5 thứ dịch, dịch khô ráo thọnnng lại thành đờm, được thuốc nhuận thì Phế không bị táo mà đờm tự nhiên tiêu. Vì Mạch môn thanh Tâm để bảo Phế, Thiên môn giúp thủy để nuôi Phế, một đằng cứu ở trên, một bên giúp ở dưới nhưng đều bảo hộ cho Phế, nhưng trên dưới, hàn nhiệt khác nhau. Cho nên, đờm của thấp tôr thì Bán hạ làm chủ, đờm do táo hỏa thì Mạch môn làm chủ. Nếu Tỳ Vị hư hán mà uống lâu, uống độc vị thì sẽ sinh ra chứng hoạt trường, tiêu chảy thành cố tật, không trị khỏi (Dược Phẩm Vậng Yếu).
+ Thiên môn mập, nhiều chất béo, khí bạc, vị đậm, ngọt, tính hàn, có tác dụng thanh táo, bổ ích tân dịch, dưỡng âm, sắc trắng đi vào Phế. Đối với người Phế hư, ho lâu ngày, ho lao, phổi khô, đuwọc vị thuốc nhu nhuận, tăng nhiều nước dịch, làm cho nước dịch bị khô chuyển thành mềm nhuận, đó là cách trị bệnh theo chính trị. Chỉ có trường hợp ho nhiều hoặc Phế có hỏa tà, phần âm chưa hao tổn, tân dịch chua bị tổn thương mà đã vội dùng Thiên môn thì chỉ làm cho tà khí bị giữ lại (Đông Dược Học Thiết Yếu).