Động Khí Châm Pháp (hay còn gọi là Động Dẫn Kỳ Khí) là một phương pháp châm cứu trong Y học cổ truyền, trong đó người bệnh được yêu cầu vận động vùng bị đau trong quá trình châm cứu để khí được dẫn đến huyệt vị và vùng bị bệnh, giúp giảm đau và điều trị bệnh.

Nguyên lý:
Sau khi kim châm đã vào huyệt và có cảm giác “đắc khí” (tê, căng, tức), người bệnh được yêu cầu vận động vùng bị đau. Mục đích là để khí từ huyệt vị được dẫn đến vùng bị bệnh, giúp khí huyết lưu thông, giảm đau và điều trị bệnh.
- Thủ thuật:
- Xác định huyệt: Lựa chọn huyệt vị phù hợp với bệnh lý của bệnh nhân.
- Châm kim và đắc khí: Kim châm được đưa vào huyệt, và người thầy thuốc sẽ thực hiện các kỹ thuật vê kim để đạt được cảm giác “đắc khí” (tê, căng, tức).
- Vận động: Bệnh nhân được yêu cầu vận động nhẹ nhàng vùng bị bệnh, đồng thời người thầy thuốc có thể kết hợp xoa bóp hoặc hướng dẫn bệnh nhân thở sâu để dẫn khí.
- Điều trị: Tùy thuộc vào tình trạng bệnh, kim có thể được rút ra ngay sau khi giảm đau, hoặc lưu kim trong một thời gian, kết hợp với việc vê kim và hướng dẫn bệnh nhân vận động.
- Ứng dụng:
Động khí châm pháp thường được áp dụng trong các trường hợp:
- Đau ở chi thể: Các cơn đau nhức, tê bì ở tay, chân.
- Đau ở vùng ngực, bụng: Các chứng đau do co thắt, tắc nghẽn.
- Bệnh lý tạng phủ: Các bệnh lý liên quan đến các cơ quan nội tạng.
- Rối loạn thần kinh, tinh thần: Các chứng bệnh như đau đầu, mất ngủ, lo âu.
- Ưu điểm:Giúp giảm đau nhanh chóng, tăng cường hiệu quả điều trị, đặc biệt hiệu quả trong các bệnh lý liên quan đến khí huyết và kinh mạch.
Cách châm động khí pháp này, đương thời được bác sĩ Đổng Cảnh Xương thường sử dụng và sử dụng một cách vô cùng hiệu quả. Đổng Cảnh Xương tiên sinh với hệ thống kì huyệt của mình tiến hành sử dụng phép châm động khí pháp vô cùng giản đơn, kết hợp cùng với việc hướng kim thẳng, nghiêng , độ nông sâu, châm dưới da, và thời gian lưu kim mà đạt được hiệu quả trị liệu đúng như kì vọng. Do không câu nệ vào chuyện bổ tả , Đổng sư phụ nghiên cứu sáng tạo ra một lối châm bình bổ bình tả rất đặc thù là động khí châm và đảo mã châm.
Động khí châm pháp chính là sau khi tiến hành các thủ pháp châm, thì yêu cầu bệnh nhân hoạt động bị đau , hoặc vùng bệnh lí . Dựa vào việc bệnh nhân có hay không có sự cải thiện , để quyết định tiếp tục niệm chuyển kim hay thay đổi kim. Nguyên gốc thứ thủ pháp này ,thầy đã định danh thủ pháp này là động khí pháp , lần đầu công bố vào năm 1975 trong cuốn “Châm cứu kinh vĩ” , thầy vô cùng tán đồng với danh xưng này, nên đã dùng cho tới ngày nay. Trung Quốc đại lục tuy cũng có loại thủ pháp tương tự như vậy , nhưng lần đầu thấy vòa năm 1988 trong cuốn “ Bắc phương y quát “ và được gọi tên là “ Vận động châm pháp” và tự cho mình là người sáng tạo đầu tiên. Thực ra là sau tới 13 năm , tức là so với Đổng Cảnh Xương tiên sinh thì ông đã sử dụng phương pháp đó trước chí ít cũng 20 năm.
Trong những năm gần đây, ở cả Trung Quốc đại lục và ở nước ngoài , đối với thủ pháp động khí châm này có không ít người nghiên cứu. Sự thực là rất sớm tại năm 1985, trong cuốn “Châm cứu đối huyệt lâm sàng kinh nghiệm” của nhà xuất bản “Sơn Tây khoa kĩ bản” do Lữ Cảnh Sơn viết đã dẫn ra ai là người gốc đề cập đến động khí châm pháp . Đổng tiên sinh nhận thấy rằng cơ thể con người có năng lực đề kháng tự nhiên, có những điểm đối ứng với nhau. Từ đó có chuyện dùng “ giao kinh cự thích” tức là lấy các huyệt ở xa để khai thông , dẫn dụ khí huyết ,kết hợp với động khí châm , hiệu quả trị liệu có thể khiến người ta kinh ngạc.
Đặc biệt đối với các chứng bệnh có tính chất đau, có thể qua thủ pháp mà lập tức dừng đau. Có thể kể đến như đau dây thần kinh tam thoa, Đổng tiên sinh châm huyệt “trắc tam lí” và “trắc hạ tam lí” ở phía bên khỏe mạnh của bệnh nhân., sau đó yêu cầu bệnh nhân nghiến răng hoặc cử động hàm, có thể lập tức giảm đau, hay như với đau thần kinh tọa , châm 2 huyệt linh cốt và đại bạch ( tam gian) ở phía bên lành của bệnh nhân sau đó yêu cầu bệnh nhân hoạt động chân và hông cũng có thể lập tức giảm đau hoặc dừng đau.
Tuy nói rằng kì huyệt phải có kì dụng, tức là dùng các kì huyệt thì phải sử dụng các phương pháp đặc biệt, nhưng đối với động khí châm không chỉ giới hạn đối với các kì huyệt ,mà có thể ứng dụng cho cả huyệt vị của 14 chính kinh. Không chỉ thích hợp cho việc giảm đau , mà còn có tác dụng trong việc điều trị các bệnh nội khoa cũng có thể đem lại hiệu quả .
Có thể kể đến như cá nhân sử dụng huyệt “thúc cốt” để điều trị đau sau đầu, huyệt “công tôn” để điều trị đau phía trước đầu , dùng “hãm cốt” để điều trị đau nửa đầu vùng thái dương( thái dương huyệt thiên đầu thống), dùng “trung trữ” để trị đau lưng, dùng “chi câu” để điều trị bắp chân đau, lấy huyệt đều lấy 1 huyệt, lập tức chỉ thống, đều nhờ vào động khí pháp.
Các bước tiến hành Động khí châm pháp
1. Đầu tiên phải chọn huyệt đạo châm ( Đây là mấu chốt , bạn phải có kiến thức về huyệt đạo, thứ khiến bạn khác biệt với một thợ châm, người thợ có thể đạt đến đỉnh cao trong đi kim, nhưng rốt cục nếu không học tập về huyệt đạo sẽ thật khó để tạo ra điểm khác biệt . nào là đối ứng châm, nào là ngũ du, nào là kì huyệt,….. )
2. Sau khi tiến châm đạt được cảm giác đắc khí như tê, tức , căng , trướng,… Sau đó một mặt niệm chuyển kim , một mặt yêu cầu bệnh nhân nhẹ nhàng cử động bộ phận bị bệnh ( có thể theo các động tác dưỡng sinh hoặc theo động tác cơ năng bình thường của bộ phận hoặc bạn sáng tạo ra động tác nào đó tác động vùng đau giảm đau thì càng tốt hơn- điểm này tôi yếu kém ) . Chứng đau có thể lập tức giảm nhẹ là biểu hiện của huyệt châm và vùng bị bệnh , kinh khí đã có sự tương dẫn với nhau. Khi đạt đến tác dụng khai thông và cân bằng thì lập tức dừng niệm châm, dựa vào bệnh nhân lúc đó mà rút kim hay lưu kim.
3. Như quá trình diễn tiến của bệnh đã lâu, có thể lưu kim lâu hơn, trong quá trình lưu kim nên niệm chuyển thêm vài lần để hành khí, có thể yêu cầu người bệnh hoạt động nhẹ nhàng vùng bị bệnh để dẫn khí.
4. Như bệnh tại vùng ngực, không có khả năng hoạt động, có thể sử dụng ấm huyệt hoặc hô hấp sâu. Khiến cho kim và khí của nơi bị bệnh có thể tương dẫn lẫn nhau, để sơ đạo bệnh tà . Ví dụ như trị chứng hung muộn hung thống , châm nội quan, sau đó yêu cầu người bệnh hít sâu thở đều . lập tức có thể thư sướng.
Động khí châm pháp là một phương pháp vô cùng đơn giản và có tính thực dụng cao . Trong trường hợp không rõ được hư thực có thể sử dụng .
Nên để vùng bị bệnh khi tiến hành ở tư thế dễ dàng hoạt động hoặc dễ dàng day ấn. từ đó mới từ các huyệt cách xa vùng bị bệnh mà thi châm. Dựa vào kinh nghiệm cá nhân , ứng dụng các huyệt ngũ du , du huyệt, mộ huyệt, khích huyệt. những huyệt đặc biệt có thể linh hoạt sử dụng , và từ đó suy luận một cách rộng lớn để ứng dụng.
Truy cứu đến nguyên lí tác dụng của phương pháp , có thể chỉ ra : Mỗi 1 huyệt đều có khả năng trị 10 loại bệnh hoặc có thể nhiều hơn nữa , nhưng nếu châm xong không hoạt động nơi bị bệnh , thì tác dụng khả năng hướng tán tới nơi bị bệnh không được tập trung . Cổ nhân thường nhấn mạnh vấn đề trị thần , tại thời điểm hoạt động khi châm, thì người bệnh thần chí chuyên chú tập trung vào nơi bị bệnh , cho nên mới nói là “ ĐỘNG DẪN KÌ KHÍ” , tác dụng điều trị của huyệt vị mới tập trung hướng tới nơi bị bệnh , đương nhiên hiệu quả sẽ tốt hơn.
Tóm lại, Động Khí Châm Pháp là một phương pháp châm cứu hiệu quả, giúp điều trị nhiều bệnh lý bằng cách tác động vào huyệt vị và kết hợp với vận động của bệnh nhân để dẫn khí, tăng cường lưu thông khí huyết và giảm đau.