Thương hàn luận giảng cáo, bệnh lý Thái Dương, mạch phù, cứng cổ đau, sợ lạnh

Trong Đông y, bệnh lý Thái Dương là một trong những chứng bệnh thuộc Lục kinh, thường biểu hiện qua các triệu chứng như đau đầu, cứng cổ, sợ lạnh, mạch phù. Đây là giai đoạn đầu của bệnh ngoại cảm, khi tà khí (phong hàn) xâm nhập vào kinh Thái Dương (bao gồm kinh Bàng quang và Tiểu trường), gây ra các rối loạn về khí huyết và kinh lạc.

Điều này là đề cương chung của bệnh lý Thái Dương, cũng là tổng quát bệnh lý ở biểu. “Bệnh của Thái Dương (Thái Dương chi vị bệnh)”, ngay từ cách đặt vấn đề đã phản ánh phương pháp phân biệt lục kinh của Trương Trọng Cảnh là căn cứ trên tạng phủ kinh lạc, chứ không đơn giản chỉ là bệnh danh. Có Thái Dương rồi mới có “bệnh của Thái Dương”. Cho nên, đầu tiên nên giúp mọi người làm rõ một chút thế nào gọi là Thái Dương, thế nào gọi là “bệnh của Thái Dương”, cái gì gọi là mạch chứng của Thái Dương, đặc điểm của mạch chứng phản ánh cái gì?

太阳之为病, Thái dương kinh
Thái dương kinh

Thái Dương là chỉ kinh Thái Dương – kinh túc Thái Dương Bàng quang. Kinh túc Thái Dương Bàng quang, phủ túc Thái Dương Bàng quang có liên quan đến nhau, phủ của Thái Dương cư ở Hạ tiêu, nhưng khí của nó thông qua kinh Thái Dương mà tuần hành ở biểu, làm ấm cơ bì, chống lại ngoại tà, bảo vệ cơ biểu. Bởi vì có chức năng sinh lý này cho nên gọi nó là Vệ khí. Không nên phân tách Vệ khí và khí của Thái Dương. Vệ khí là khái niệm đặc biệt của Trung Y, các nhà y học cổ đại cực kỳ coi trọng Dinh khí, Vệ khí.

Vệ khí tuần hành ở cơ thể người có quy luật riêng, ban ngày và buổi đêm cộng lại với nhau, Vệ khí tuần hành ở cơ thể người là 50 vòng. Trong số 50 vòng này, vào ban ngày, Vệ khí tuần hành ở phần dương 25 vòng, ban đêm tuần hành ở phần âm 25 vòng, sau đó trời sáng, cũng là lúc rạng sáng, con người tỉnh dậy, mắt sẽ mở, cho nên nói rằng “mở mắt là dương, nhắm mắt là âm (khai mục vi dương, bế mục vi âm 开目为阳,闭目为阴)”. Chỉ cần dương khí hoạt động, Vệ khí sẽ tuần hành trên thì đầu cổ, dưới thì Thái Dương, cũng có thể nói rằng lúc này Vệ khí giao với kinh Thái Dương. Lúc này, từ âm chuyển sang dương, Vệ khí tuần hành ở dương đạo, sẽ từ túc Thái Dương bắt đầu trước. Những nội dung này trong “Nội kinh” và “Nan kinh” đều có nói đến, mọi người có thể xem lại. Tại sao lại giảng đến kinh lạc, tạng phủ? Tại sao lại giảng đến Dinh, Vệ, Khí, Huyết và Tân dịch? Do là vận động của vật chất sinh lý cơ bản của con người, không giảng đến nó thì Trung Y sẽ không có gì. Khí của Thái Dương. Khí của Thái Dương cũng chính là Vệ khí. Khí của Thái Dương đứng đầu lục kinh mà thống nhất Dinh Vệ, làm ấm cơ nhục, làm nhuận tấu lý, trông coi khai hợp, củng cố mà bảo vệ phía ngoài, trên thực tế không thể tách rời với khí của Vệ dương. Bởi vì khí của Thái Dương có tác dụng quan trọng như thế cho nên gọi là Cự Dương[1] hoặc Thái Dương. Thái cũng có nghĩa là lớn, Thái Dương có nghĩa là một thứ dương khí cực lớn. Vệ khí ở phần biểu của toàn thân đều chịu sự quản lý của Thái Dương.

Liên quan đến vấn đề Thái Dương chủ biểu, “Linh khu – Dinh vệ sinh hội (灵枢·营卫生会)” có nói: “Thái Âm chủ nội, Thái Dương chủ ngoại (太阴主内,太阳主外)”. Ngoại chính là biểu. “Linh khu – Bản tàng(灵枢·本脏)” có nói: “Thận hợp với Tam tiêu, Bàng quang. Bàng Quang cung cấp cho tấu lý bì mao (肾合三焦、膀胱。三焦、膀胱者,腠理毫毛其应)[2]”. Thận là gốc của Âm Dương, cho nên bệnh của của cơ thể do âm dương bất hòa, bắt buộc phải để ý đến Thận. Thận tuy hợp với Tam tiêu, lại hợp với Bàng quang. Bàng quang gọi là phủ của Thủy; “Tam tiêu là con đường vận chuyển của thủy cốc, cũng là nơi bắt đầu và kết thúc con đường vận hành của khí (三焦者,水谷之道路,气之所终始也)”[3]. Tam tiêu cũng gọi là đường đi của Thủy.

Khí của Tam tiêu chủ yếu để làm ấm cơ nhục, cho nên khí của Thận dương thông qua Tam tiêu và Bàng quang mà cấp cho tấu lý bì mao ở ngoài. “Tấu lý hào mao kỳ ứng”, ý là dương khí ở tấu lý bì mao cơ thể người chính là khí của Thận dương thông qua Bàng quang và Tam tiêu để phân bổ. “Ứng” là cấp cho, cấp cho bên ngoài là tấu lý bì mao, nghĩa là Khí và Thủy có nguồn gốc từ bên trong cấp cho bên ngoài. Bởi vì, Bàng quang, Tam tiêu đều có kèm theo cả tân dịch, cho nên đến tấu lý bì mao thì không phải chỉ đơn thuần là Khí nữa, bên trong còn hàm chứa cả thành phần của Thủy. Ngoại cảm tà khí của phong hàn một mặt làm nghẹn trở dương khí, có nghĩa rằng thủy dịch của tấu lý bì mao cũng bị tắc trở, cho nên cần phải phát hãn mới có thể khiến cho tà khí phong hàn bị trừ khử. Y gia Nhật Bản cho rằng Ma Hoàng thang phát hãn là giải thủy độc.

Con người là một cơ thể hoàn chỉnh, chức năng của tạng phủ sẽ hỗ trợ lẫn nhau. “Linh khu – bản du” có viết: “Thiếu dương thuộc Thận, Thận phía trên liên lạc với Phế, cho nên giúp đỡ hai tạng (少阳属肾,肾上连肺,故将两脏)”, ở đây cũng ý là Thận trên thì thuộc Phế, hợp với Bàng quang, thông qua Tam tiêu để nối liền trên dưới, “cho nên giúp đỡ hai tạng”, cho nên nói Thái Dương chủ biểu và sự chi viện của  dương khí của Thiếu âm là không thể tách rời. Tại sao Thái Dương lại có quan hệ biểu lý với Thiếu âm? Không hợp thành Âm Dương biểu lý thì Thái Dương chủ biểu sẽ rất vất vả, nó sẽ không thể có sức mạnh lớn đến vậy. Chỉ có sự trợ giúp của Thận khí Thiếu âm, khí nguyên dương của tiên thiên, mới có thể có sức mạnh cực lớn của dương khí,

Thương hàn luận giảng cáo, bệnh lý Thái Dương, mạch phù, cứng cổ đau, sợ lạnh
Bệnh Thái dương biểu hiện bằng mạch phù, cổ cứng đau, sợ lạnh

Ngoài ra, chúng ta lại trong “Linh khu – Quyết khí” đoạn có liên quan đến vấn đề khí. Thế nào gọi là khí? “Từ Tam tiêu mà phát ra, tuyên phát khí của ngũ vị, thấm vào bì phu toàn thân mà nhuận được bì mao, giống thấm đẫm sương mưa, thì gọi là khí (三焦开发,宣五谷味,熏肤充身泽毛,若雾露之溉,是谓气)[4]”. Chúng ta vừa giới thiệu qua, khí của Thái Dương cần phải thông qua Tam tiêu, nhận được sự chi viện của Thận, mới có thể chủ biểu. Nhưng mà, chỉ có Thận khí của tiên thiên, không có khí của thủy cốc của hậu thiên, khí của hô hấp thì cũng không ổn. “Linh khu – Quyết khí” có chỉ ra: “Tam tiêu khai phát, tuyên ngũ cốc vị”, con người chỉ có hô hấp khí của thiên dương, khí của thiên dương và khí của thủy cốc kết hợp với nhau, biến thành năng lượng, sau đó mới có thể “thấm vào bì phu toàn thân mà nhuận bì mao, giống như thấm đẫm sương mưa, mà được gọi là khí”. Cho nên Thái Dương làm ấm cơ nhục, nhuận tấu lý, trông coi khai hợp, bảo vệ bên ngoài mà cố nhiếp dương khí, lại bao hàm cả thận khí tiên thiên, cũng bao hàm cả khí của thủy cốc và khí của hô hấp.

Theo như cách nói ngày trước, có thiên khí chính là khí của hô hấp, có địa khí chính là khí của thủy cốc, có nhân khí chính là thận khí tiên thiên vốn có sẵn, đó là hiệu quả hiệp đồng khi hội của ba yếu tố thiên, địa, nhân. Cho nên, không có Phế tuyên phát, Vị nuôi dưỡng, thì khí của Thái Dương không có nguồn cung cấp cũng không có nguồn duy trì, sẽ chẳng thể nào phát huy tác dụng của nó. Tại sao trong số triệu chứng của Thái Dương biểu lý lại có suyễn? Bởi vì, khí của Thái Dương bao hàm cả Phế khí, tà khí làm ảnh hưởng đến tuyên phát của Phế khí, dẫn đến Phế khí không thông lợi. Tại sao trong bệnh lý của Thái Dương lại có nôn khan, buồn nôn? Bởi vì khí của Thái Dương bao hàm cả Vị khí, tà khí ảnh hưởng đến sự thông giáng của Vị khí, dẫn đến Vị khí không thuận. Tại sao trong bệnh lý Thái Dương lại có “phát nhiệt mà ngược lại lại có mạch trầm”? Bởi vì, khí của Thái Dương bao hàm cả khí của Thiếu Âm Thận. Cho nên, chúng ta cần phải có một quan niệm chỉnh thể, con người trên phương diện chức năng sinh lý tất cả đều có quan hệ với nhau. Thái Dương chủ biểu với Phế chủ bì mao, Tam Tiêu ôn ấm cơ nhục đều là thống nhất với nhau, không nên quan niệm rằng mỗi bộ phận là một thứ riêng, không có quan hệ với nhau.

Chúng ta lại phân tích vấn đề của kinh Thái Dương. Dựa theo lý luận Trung Y, kinh lạc tồn tại trong cơ thể là khách quan. Các nhà Châm Cứu dựa vào kinh để chọn huyệt, châm một huyệt để chữa bệnh cho kinh đó. Trước kia trong Cách mạch văn hóa, tôi ở nông thôn, ngày ngày đến các nhà nghèo khám bệnh cho họ, có một cháu bé họ Trần, 14 tuổi, sốt cao. Khi tôi đến khám lại không mang thuốc, nên phỏng theo phương pháp trong “Thương Hàn”, châm cho cháu bé Phong Trì, Phong Phủ, còn có Đại Trữ, Khúc Trì. Không ngoài dự đoán của tôi, châm xong thì toàn đầu ra mồ hôi, sốt liền giảm. Tại sao lại nói Thái Dương chủ biểu với kinh không có quan hệ được? Trương Trọng Cảnh nói rằng châm Đại Trữ ở khoang thứ nhất, Phế Du, Can Du, Kỳ Môn đều có cái lý của nó, đó chính là giảng về kinh lạc tạng phủ. Kinh của Thái Dương là đứng đầu các kinh dương, Thiếu Dương và Dương Minh đều không bằng nó. Bởi vì, kinh của Thái Dương tuần hành ở phần Dương, con người phía trước là âm, phía sau là Dương, mà kinh của Thái Dương tuần hành ở phía sau lưng. Kinh túc Thái Dương Bàng quang xuất phát từ khóe mắt trong, lên trán giao với đỉnh đầu, từ đỉnh đầu để vào lạc với não, còn có nhánh xuất ra ở cổ tuần hành ở phía trong vai, song song hai bên cột sống cho đến ngang lưng thì vào bên trong lạc với thận, thuộc về Bàng quang. Nó không chỉ tuần hành ở phía sau lưng, mà còn là một kinh dài nhất, huyệt đạo cũng nhiều nhất. Ngoài ra, kinh Thái Dương và mạch Đốc cùng tuần hành, mạch Đốc là tổng đốc của các kinh Dương. Cho nên, chỉ có kinh Thái Dương mới có thể làm tốt tác dụng thông hành dương khí và chủ biểu. Đồng thời, Bàng quang cũng là phủ của Thủy, Thủy có thể hóa Khí, Khí có thể hành Thủy, cho nên nó mới có thể chủ biểu.

Vậy có phải kinh của Thái Dương chỉ như một sợi chỉ hay không? Hiện nay có một số người cho rằng, căn cứ của lục kinh trong “Thương hàn luận” là quan niệm phản bác lại học thuyết kinh lạc, họ cho rằng: “Làm gì có cái lý lẽ đó? Bệnh của kinh Thái Dương là bệnh của một cái đường kinh đó thôi sao?” Thực ra, cái đường chỉ đó chỉ là đường trục chính của nó, ví như đường ray của đường sắt. Đường lớn thì gọi là kinh, đường nhỏ gọi là lạc, đường nhỏ hơn gọi là tôn lạc, tạo thành mạng lưới khắp cơ thể vậy. Cho nên, nếu phân ra thì Thái Dương có ba phần, gọi chung là Thái Dương, kinh của Thái Dương, phủ của Thái Dương. Thái Dương của cơ thể chính là Thái Dương chủ biểu, những gì ở biểu đều thuộc Thái Dương; kinh của Thái Dương chính là nói về kinh mạch của nó, đầu gáy đau cứng là do kinh mạch của nó không thông lợi; phủ của Thái Dương chính là do chức năng khí hóa của Bàng Quang có vấn đề. Thái Dương của cơ thể, kinh của Thái Dương, Phủ của Thái Dương, khái quát chung gọi là Thái Dương. Xem xét lý giải của các nhà nghiên cứu, có người xem xét bắt đầu từ góc độ phủ của Thái Dương, có người từ kinh của Thái Dương, trên thực tế nó là một chỉnh thể thống nhất. “Y tông kim giám” vì để cho “Thương hàn luận” có thể dễ hiểu một chút, đưa ra khái niệm về Thái Dương nói chung, kinh của Thái Dương, phủ của Thái Dương. Chính là vì có phủ của Thái Dương, nên tà từ kinh có thể chuyển sang phủ, vì kinh và phủ có liên hệ mật thiết với nhau, giống như rễ cây và cành cây, đều là một chỉnh thể thống nhất.

Bởi vì Thái Dương chủ biểu, cho nên tà khí từ bên ngoài vào, khi lưu trú ở phần biểu của cơ thể sẽ bắt đầu từ Thái Dương. Chính khí đấu tranh với tà khí ở phần biểu của cơ thể, vị trí bệnh sẽ ở phần biểu. Một loạt các biến đổi bệnh lý này gọi là biểu chứng. Chứng đầu tiên của biểu chứng chính là “mạch phù”. Xếp mạch chứng vào vị trí đầu tiên trong số ba chứng đầu gáy đau cứng, sợ lạnh, mạch phù, chứng tỏ nó rất quan trọng. Vì sao lại có mạch phù. Bởi vì chính khí đấu tranh với tà khí ở phần biểu, dinh vệ khí huyết đều có hướng ra phía ngoài, cho nên mạch phù. Chữ “phù” ở đây có rất nhiều ý nghĩa. Thứ nhất, xét từ góc độ mạch tượng, mạch phù giống như gỗ nổi trên mặt nước, “mạch phù chỉ đi ở phía trên cơ nhục”. Thứ hai, từ góc độ bệnh lý, tại sao lại có mạch phù? Điều này phản ánh Thái Dương biểu chứng. Bởi vì tà khí đầu tiên lưu ở thể biểu, chính khí bắt đầu chống lại, khí huyết dồn ra phía ngoài, cho nên mạch phù. Cũng chính là điều chúng ta thường nhấn mạnh “có một phần mạch phù cũng tức là có một phần biểu chứng”. Bất kể thời gian bệnh dài hay ngắn, chỉ cần có mạch phù, đều là phản ánh khí huyết dồn ra phía ngoài, cũng có nghĩa rằng tà khí ở biểu vẫn chưa được giải, “mạch phù là bệnh đang cư ở ở biểu dương”, cho nên không được dùng loại thuốc hạ như Thừa khí thang là vì thế.

Làm thế nào để phán đoán là mạch phù? Xem mạch có Cử, có Án, có Tầm (举、按、寻)[5]. Các tầng lớp trong cơ thể con người từ ngoài vào trong phân thành Bì, Nhục, Mạch, Cân, Cốt, được gọi là Ngũ Thể. Đặt nhẹ tay gọi là Cử Pháp, cũng chính là cách để xem mạch phù, ấn mạnh hơn vào cơ nhục, lại ấn mạnh hơn tới cân, lại ấn mạnh hơn nữa tới xương, được gọi là Cử Án Tầm. Lúc đầu nên dùng Cử Pháp. “ (脉有其真,曰浮中沉,上竟下竟,左右推循)” [6], bắt buộc phải tuân theo quy tắc này mà làm.

Chứng thứ hai của biểu chứng là triệu chứng chủ yếu của nó. Thứ nhất là đầu đau gáy cứng, đầu đau và cổ gáy cứng là hai chứng hậu có cơ chế liên quan đến nhau. Đầu là nơi hội tụ của dương khí, tất cả các kinh dương đều hội lại ở trên đầu, nhưng mỗi kinh lại có vị trí khác nhau, Dương Minh ở phần trán của đầu, Thiếu Dương ở cạnh đầu, Thái Dương ở đỉnh đầu. Đầu là nơi 3 kinh dương thông với nhau, mà đỉnh đầu lại là nơi chuyên thuộc về Thái Dương. Tuy rằng bệnh của 3 kinh dương đều có thể xuất hiện ở đầu, nhưng chỉ có đầu đau cổ gáy cứng là triệu chứng chỉ kinh Thái Dương mới có, đây là một tính đặc trưng của nó. Cái này là 项强 (jiàng – cương) nếu đọc là 项强 (qiáng – cường) cũng được. Cái gì gọi là 强 (Cương – Cường)? Ý là nói kinh mạch Thái Dương không thông lợi. Bởi vì kinh mạch có tác dụng sơ thông, có thể gọi là kinh vận chuyển[7]. Trong “Linh khu – Bản Tạng” có một câu như này: “Thứ gọi là kinh mạch, là nơi vận chuyển huyết khí mà dưỡng âm dương, nhuận cân cốt, lợi quan khớp”[8]. Kinh mạch là để vận chuyển khí huyết, để nhuận cân cốt mà lợi quan khớp, dựa vào sơ thông để hòa hợp.

Bởi vì Thái Dương bị nhiễm tà khí, chắc chắn sẽ ảnh hưởng khiến kinh của nó bị nhiễm tà khí theo, cho nên Thái Dương biểu chứng cũng gọi là Thái Dương kinh biểu chứng. Kinh Thái Dương chỉ cần nhiễm tà khí, bộ phận phản ánh bệnh chủ yếu sẽ là cổ, thấp hơn một chút là lưng, thấp hơn nữa là eo lưng. Kinh Thái Dương vận chuyển không thông lợi, cổ gáy phía sau sẽ cứng, chính là khi nói đến vận động, cúi đầu, nằm ngữa có chút gì đó khó khăn, cảm giác cứng nặng. Có người chú thích rằng “cường chính là cứng đơ” là không đúng, đã trở thành kinh bệnh mất rồi.

Triệu chứng thứ hai là “mà sợ lạnh (而恶寒/ nhi ố hàn), chữ “mà 而” ở đây đảm trách nhiệm vụ liên từ, không chỉ khiến cho chứng hậu nhắc đến phía trên và phía dưới liền mạch lại với nhau, mà còn có ý nhấn mạnh. Phàm là Trương Trọng Cảnh dùng chữ “mà” để nhắc đến những triệu chứng ở sau như “không ra mồ hôi mà phiền táo无汗出而烦躁”, “không có mồ hôi mà suyễn无汗而喘者” đều là có ý nghĩa quan trọng nhất định. Vì sao lại sợ lạnh? Bởi vì tà khí làm tổn thương khí của Thái Dương, vệ khí không thể ôn ấm cơ nhục như bình thường, cho nên mới sợ lạnh.

Đề cương chung của “Thương hàn luận” biểu chứng không nhắc đến phát nhiệt, chỉ nhắc đến sợ lạnh. Biểu chứng cũng có thể phát nhiệt, bởi vì dương khí bị uất. Khí của Thái Dương bị tà khí làm tổn thương, dương khí phải chống lại tà khí ở biểu, khai hợp không lợi, dương khí bế uất, nên thường có chứng hậu phát nhiệt. Tại sao trong đề cương chung của “Thương hàn luận” ở điều này không nói đến phát nhiệt? Tà khí khi tổn thương cơ thể thì trước tiên sẽ tổn thương dương khí, cho nên sợ lạnh nhất định sẽ xuất hiện. Xem xét triệu chứng cơ năng là sợ lạnh thì triệu chứng này nhất định sẽ xuất hiện trước phát nhiệt. Biểu dương sau khi bị tổn thương, dương khí, dinh vệ, khí huyết trên cơ thể đều tích cực chống lại tà ở phần biểu của cơ thể, sau khi xuất hiện dương khí uất trở sẽ xuất hiện sốt cao. Tuy nhiên, trên lâm sàng cũng có trường hợp sợ lạnh đồng thời đã có sốt cao. Thời cổ đại không có nhiệt kế, chỉ có thể căn cứ vào lời bệnh nhân mô tả để ghi chép lại, cho nên nhấn mạnh vào sợ lạnh. Cho nên, biểu chứng ngoài sợ lạnh còn thường có kèm theo sốt cao.

Đây chính là đề cương chung về bệnh lý Thái Dương, cũng là đề cương chung của Biểu chứng. Về sau phàm nhắc đến bệnh Thái Dương, bất kể là ở trong phần viết về Thái Dương hay ở phần viết về bệnh khác, cũng đều nên nhớ đến mạch chứng, chủ chứng của biểu chứng là mạch phù, đau đầu, cổ gáy cứng, sợ lạnh, phát nhiệt.

Nguồn: 刘渡舟著录.刘渡舟伤寒论讲稿[M]. 北京.人民卫生出版社,2008: 21 – 25.

(辨太阳病脉证并治法上) 太阳之为病,脉浮,头颈强痛而恶寒

———————–

[1] 巨阳: 巨/Cự/ to lớn. Cự Dương hàm ý chỉ dương khí rất mạnh.

[2] Thận hợp Tam tiêu, bàng quang. Tam tiêu, Bàng quang giả, tấu lí hào mao kỳ ứng

[3] Tam tiêu giả, thủy cốc chi đạo lộ, khí chi sở chung khởi dã

[4] Tam tiêu khai phát, tuyên ngũ cốc vị, huân phu sung thân trạch mao, nhược vụ lộ chi khai, thị vị khí

[5] Chính là nói về mức độ đặt tay nặng nhẹ khi xem mạch. Trong đó, tầm có nghĩa là tìm kiếm, tầm soát.

[6] Mạch hữu kỳ chân, viết phù trung trầm, thượng cánh hạ cánh, tả hữu thôi tuần.

[7] 经输/ kinh thâu/: “thâu” là chỉ vận chuyển, chuyên chở, tiếp dẫn hoặc thu góp. 2 từ này hợp lại ý chỉ rằng kinh mạch cũng là nơi vận chuyển, tiếp dẫn giống như từ sơ thông.

[8] 《灵枢·本脏》:“经脉者,所以行血气而营阴阳,濡筋骨,利关节者也”

74 / 100 Điểm SEO