Theo Đông y, thủy đậu là một loại bệnh ôn dịch. Bệnh ôn dịch thường phát bệnh vào mùa xuân, nên gọi là xuân ôn hay phong ôn (phong là gió xuân làm lây lan siêu vi nhiễm bệnh rất nhanh).
Vài nét về bệnh
Bệnh thủy đậu hay trái rạ là một bệnh nhiễm khuẩn nhẹ do siêu vi Herpasvirus (tên khoa học là Varicella-Zoster) truyền nhiễm bởi các giọt nhỏ trong không khi sau khi ủ bệnh từ 11 – 18 ngày, có sốt nóng nhẹ, sau đó trong vòng 24 giờ xuất hiện ban ngứa, có mụn màu đỏ sẫm. Các mụn lan rộng từ thân mình tới mặt, da đầu và tứ chi thân thể. Tùy theo sức đề kháng của mỗi người mà mức độ nhiễm khuẩn nhiều hay ít mà các mụn đầu thưa thớt hay dày đặc như gai mít. Tiến triển của bệnh như sóng lượn, cứ 2 – 3 ngày có một đợt mụn mới cương lên, kèm theo sốt nhẹ và đau mình, do đó trên mặt da các mụn thủy đậu không đồng đều, có mụn mới nhú, có mụn căng đỏ, có mụn bóng nước trong, có mụn nước đục, có mụn lún đầu chuyển màu đen rồi xẹp xuống đóng vảy…
I. CĂN NGUYÊN VÀ CƠ CHẾ PHÁT BỆNH THEO ĐÔNG Y
Đông y cho rằng, bệnh Thủy đậu chủ yếu là do hai loại tà khí (tác nhân gây bệnh) kết hợp xâm phạm vào cơ thể:
Ngoại nhân: Thấp nhiệt độc tà kết hợp với Thời dịch lệ khí (một loại khí độc mang tính dịch tễ theo mùa). Loại tà khí này thường bùng phát vào mùa Xuân – Hạ, khi khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, tạo điều kiện cho thấp nhiệt sinh sôi.
Nội nhân: Cơ thể chính khí hư suy (sức đề kháng kém), đặc biệt là ở trẻ nhỏ do tạng phủ còn non yếu, hoặc ở người lớn có thể chất vốn đã hư nhược.
Khi chính khí suy yếu, thấp nhiệt độc tà sẽ thừa cơ xâm nhập. Chúng tiến công trước tiên vào hai kinh Phế và Tỳ.
Phế chủ bì mao, chủ tuyên phát, thông điều thủy đạo. Khi tà khí phạm vào Phế, chức năng tuyên phát bị rối loạn, dẫn đến các triệu chứng ban đầu như sốt, ho, sổ mũi, hắt hơi (giống như cảm mạo).
Tỳ chủ vận hóa, chủ cơ nhục. Thấp nhiệt độc tà ủng kết ở Tỳ, sau đó phát tán ra ngoài cơ bì (da thịt), hình thành nên các mụn nước. Tính “thấp” khiến cho dịch trong nốt đậu thường trong, cơ thể mệt mỏi; tính “nhiệt” gây ra sốt cao, môi miệng khô, nốt đậu có thể viêm đỏ xung quanh.
Như vậy, bệnh Thủy đậu là một cuộc “giao tranh” giữa chính khí (sức đề kháng) và tà khí (thấp nhiệt độc) trên chiến trường là làn da và toàn bộ cơ thể.
II. BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ
Tùy vào sự thắng bại giữa chính khí và tà khí, cũng như độ sâu nặng của bệnh, Đông y chia bệnh Thủy đậu thành các thể lâm sàng khác nhau để có pháp trị phù hợp.
Pháp điều trị tổng quát là: Thanh nhiệt, hóa thấp, giải độc.
1. Thể Thấp Nhiệt Uất Kết (Thể thông thường – Kỳ phát kỳ)
Chứng trạng: Sốt nhẹ hoặc không sốt, chán ăn, cơ thể mệt mỏi. Các nốt thủy đậu mọc rải rác, màu da hồng nhuận, bên trong dịch trong, sau 3-4 ngày thì khô se lại, đóng vảy và bay đi. Đây là thể nhẹ, chính khí còn mạnh, tà khí chỉ ở phần biểu (bên ngoài).
Phép trị: Sơ phong thanh nhiệt, lợi thấp thấu chẩn.
Bài thuốc thường dùng: Ngân Kiều Tán gia giảm.
Công dụng: Ngân hoa, Liên kiều để thanh nhiệt giải độc; Bạc hà, Kinh giới để sơ phong tán nhiệt; Ngưu bàng tử, Cát cánh để tuyên Phế; các vị như Cam thảo, Đạm đậu xị điều hòa.
2. Thể Nhiệt Độc Thịnh (Thể nặng)
Chứng trạng: Sốt cao, mặt đỏ, miệng khô khát, tinh thần mệt mỏi hoặc bồn chồn. Các nốt thủy đậu mọc dày đặc, sắc đỏ tươi hoặc tím, dịch bên trong đục, xung quanh sưng đỏ, có thể kèm theo loét miệng, lỡ loét, tiểu tiện vàng, đại tiện táo. Đây là do nhiệt độc quá thịnh, thương vào phần dinh huyết.
Phép trị: Thanh nhiệt lương huyết, giải độc hóa thấp.
Bài thuốc thường dùng: Thanh Ôn Bại Độc Ẩm gia giảm hoặc Thanh Vị Giải Độc Ẩm.
Công dụng: Sinh địa, Đan bì để lương huyết; Hoàng liên, Hoàng cầm, Chi tử để đại thanh nhiệt độc; Liên kiều, Ngân hoa giải độc; các vị như Thạch cao, Tri mẫu thanh khí phân nhiệt mạnh.
3. Thể Tà Độc Nội Phạm (Biến chứng nguy hiểm)
Chứng trạng: Sốt rất cao, co giật, hôn mê. Các nốt thủy đậu có màu tím sẫm, dịch đục. Đây là tình trạng nặng, tà độc không những phạm vào dinh huyết mà còn công lên tâm bào (tâm), gây ra các chứng hôn mê, hoặc thương đến can (gan) gây co giật.
Phép trị: Thanh tâm lương huyết, tức phong khai khiếu.
Bài thuốc: Sử dụng các bài thuốc cấp cứu như An Cung Ngưu Hoàng Hoàn, Tử Tuyết Đan kết hợp với các bài thuốc thanh nhiệt giải độc mạnh. Thể này cần kết hợp với Tây y để cấp cứu kịp thời.
4. Bài thuốc Đông y đặc trị bệnh thủy đậu
Phương dược: Tam hoàng ngân kiều kinh phòng giải độc thang: hoàng cầm 12g; hoàng bá 12g; hoàng liên 8g; kim ngân hoa 20g; liên kiều 16g; kinh giới 12g; phòng phong 12g; độc hoạt 8g; khương hoạt 8g; tiền hồ 8g; sài hồ 10g; chỉ xác 8g; cát cánh 8g; bạch linh 16g; cam thảo 8g; xuyên khung 8g; bạch chỉ 8g; bạc hà 6g; đảng sâm 16g; gừng tươi 3 lát; đại táo 3 quả.
Tất cả 21 vị hợp thành 1 thang thuốc, hiện có bán ở tất cả các hiệu thuốc Đông y.
Công dụng: diệt siêu vi khuẩn thủy đậu rất hiệu quả, hết ngứa giảm đau, làm xẹp mụn, giải độc, cải thiện sức đề kháng và phục hồi sức khỏe. Điều trị được giai đoạn khởi phát, toàn phát và biến chứng, nhất là biến chứng thủy đậu nhiều năm sau như bệnh Zona thần kinh (dời leo)…
Cách dùng: sắc uống mỗi ngày 1 thang, sắc 2 nước: nước nhất cho 5 chén nước sạch sắc còn 1 chén, uống bất kỳ, nước thứ hai cho 5 chén nước sắc còn chén lưng, uống sau nước thứ nhất 4 giờ.
III. CHĂM SÓC VÀ PHÒNG NGỪA THEO ĐÔNG Y
Ẩm thực trị liệu (Kiêng kỵ):
Kiêng tuyệt đối các thức ăn tanh (tôm, cua, cá, mực), đồ nếp, thịt gà, đồ chiên rán, cay nóng (ớt, tiêu). Những thực phẩm này có tính “phong” hoặc “động hỏa”, dễ làm bệnh nặng thêm, gây ngứa nhiều và để lại sẹo.
Nên ăn các thức ăn thanh đạm, dễ tiêu như cháo đậu xanh, ý dĩ, củ năng, mướp đắng, uống nước rau má, nước kim ngân hoa, cam thảo để giúp thanh nhiệt, giải độc.
Dưỡng sinh:
Giữ cơ thể sạch sẽ, tránh để nhiễm trùng. Có thể dùng nước lá kinh giới, lá khổ qua (mướp đắng) để tắm rửa nhẹ nhàng, giúp thanh nhiệt, giảm ngứa.
Nghỉ ngơi tại chỗ, tránh gió lùa.
Giữ tinh thần thư thái, tránh kích động.
Phòng bệnh:
Cách ly người bệnh.
Vào mùa dịch, có thể dùng các loại trà thuốc phòng bệnh như nước sắc Kim Ngân Hoa, Liên Kiều, Cam Thảo với liều lượng nhẹ để thanh nhiệt, tăng cường sức đề kháng cho cơ thể.
IV. KẾT LUẬN
Bệnh Thủy đậu theo Đông y không đơn thuần là một bệnh ngoài da, mà là một chứng bệnh toàn thân với sự giao tranh giữa chính khí và tà khí. Việc điều trị không chỉ nhằm vào việc làm biến mất các nốt đậu, mà quan trọng hơn là phục hồi chính khí, đuổi tà khí ra ngoài, điều hòa lại công năng của Phế và Tỳ. Một khi âm dương trong cơ thể được cân bằng, khí huyết lưu thông, bệnh tật sẽ tự lui.



